google-site-verification: google3535ce5ce54791e6.html 2014 ~ TRANG TIN 24/7
TIN TỨC HAY

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI TRANG TIN TỨC TỔNG HỢP

CHÚC CÁC BẠN CÓ MỘT THỜI GIAN BỔ ÍCH

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI TRANG TIN TỨC TỔNG HỢP

CHÚC CÁC BẠN CÓ MỘT THỜI GIAN BỔ ÍCH.

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI TRANG TIN TỨC TỔNG HỢP

CHÚC CÁC BẠN CÓ MỘT THỜI GIAN BỔ ÍCH.

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI TRANG TIN TỨC TỔNG HỢP

CHÚC CÁC BẠN CÓ MỘT THỜI GIAN BỔ ÍCH.

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI TRANG TIN TỨC TỔNG HỢP

CHÚC CÁC BẠN CÓ MỘT THỜI GIAN BỔ ÍCH.

Blogroll

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Người Việt ưa nịnh, thích ‘dìm’: Tác hại đến đâu?

(Chính trị) - “Với một truyền thống văn hóa “ưa được nịnh”, “thích được khen”, nhưng lại sợ phê bình và tự phê bình đến như thế, nếu không tự thay đổi từ gốc rễ mà cứ đòi hỏi tiến bộ, đòi hỏi “văn hóa từ chức”…, thì vẫn chỉ là mơ mộng mà thôi!” – GS-TSKH Trần Ngọc Thêm.

Vừa qua, “Đại tướng quân Hai lúa” trở thành đề tài được bàn luận sôi nổi. Mặc dù đây chỉ là một câu chuyện nhỏ, nhưng từ đó đã gợi ra rất nhiều điều khiến chúng ta suy ngẫm, liên quan đến việc vì sao những sáng tạo, thay đổi, cải cách của VN vẫn còn gặp nhiều rào cản và chậm bước so với đòi hỏi của thời đại.
Chẳng hạn, so với các quốc gia láng giềng trong khối ASEAN, như Myanmar, Campuchia, Lào, thì Việt Nam đổi mới sớm nhất. Nhưng sau cú đột phá ngoạn mục vào năm 1986, chúng ta lại rơi vào trì trệ, hiện nay nhiều người đã cảnh báo về nguy cơ tụt hậu…
Nguyên nhân văn hóa căn cốt ẩn sau những vấn đề ấy chính là chủ đề của cuộc trò chuyện của PV với GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học tự nhiên Nga, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng Trường Đại học KHXH&NV thuộc ĐHQG-HCM. Những câu trả lời của ông xoay quanh một lý giải được ông khái niệm hóa là “Văn hóa âm tính”.
Trần Ngọc Thêm, Đại tướng quân, văn hóa, Trần Quốc Hải, xe tăng, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, Vạn lý Trường thành,
GS-TSKH Trần Ngọc Thêm. Ảnh: Phạm Thành Long
“Biến đổi từ từ”
Thưa Giáo sư, là người có nhiều năm nghiên cứu văn hóa VN, xin ông đưa ra một nhận định tương đối khái quát vì sao những thay đổi của chúng ta thường diễn ra khó khăn và chậm hơn so với đòi hỏi bức thiết của thực tế?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Tôi đã có quá trình nghiên cứu khá lâu về câu hỏi nhức nhối này và đi đến kết luận rằng: “Văn hóa VN có đặc điểm là biến đổi từ từ, không có đột biến, trừ trường hợp có ảnh hưởng hay tác động có yếu tố bên ngoài như cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 hay công cuộc Đổi mới năm 1986″. Giờ tôi xin nhắc lại để trả lời cho câu hỏi của anh.
Xuất phát từ đâu VN lại có đặc điểm văn hóa như vậy, thưa ông?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Năng lực hành động và năng lực tư duy bắt đầu từ văn hóa. Nói cách khác, văn hóa là cái gốc rễ của dân tộc. Phải hiểu sâu hơn về cội nguồn gốc rễ đó thì mới lý giải được mọi chuyện, mọi vấn đề đặt ra, mọi vấn nạn mà chúng ta đang thấy.
Theo phân loại của tôi, nền văn hóa Việt Nam của chúng ta thuộc loại âm tính, mang những đặc trưng khác hẳn những nền văn hóa dương tính. Văn hóa âm tính giống như tính cách của người đàn bà, thích sự ổn định và luôn hướng tới sự ổn định, rất ngại mọi sự thay đổi. Văn hóa dương tính thì ngược lại, giống tính cách người đàn ông, mạnh mẽ, quyết liệt, hay thay đổi, ghét sự trì trệ, nhàm chán, v.v.
Khi nghiên cứu chúng ta tách ra chứ kỳ thực trong mỗi sự vật, hiện tượng, con người… đều có phần âm và phần dương, cái khác nhau là ở chỗ mặt nào trội hơn mà thôi.
Điều kiện tự nhiên là nguồn gốc của văn hóa. Thiên nhiên khác nhau thì kinh tế cũng sẽ khác nhau, từ đó văn hóa ắt cũng sẽ khác nhau. Các dân tộc có truyền thống mưu sinh bằng nông nghiệp trồng trọt là âm tính; trong đó nông nghiệp lúa nước thuộc loại âm tính nhất. Các dân tộc sống bằng chăn nuôi, du mục thuộc loại dương tính.
Trên thế giới mênh mông này chỉ có Đông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp lúa nước. Trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nhiều hơn chăn nuôi, trồng lúa nước thì mức độ phụ thuộc cao nhất. Sự phụ thuộc khiến người ta trở nên thụ động. Và cũng chính vì vậy mà nơi này có nền văn hóa âm tính nhất.
Đông Bắc Á và phương Tây là những vùng đồng cỏ, thảo nguyên mênh mông, con người thời cổ sống bằng kinh tế du mục, khiến con người phải luôn phải rong ruổi, di chuyển. Điều này tác động đến lối suy nghĩ, dần dần hình thành kiểu văn hóa dương tính, đối lập với văn hóa âm tính của chúng ta.
Văn hóa Việt – Trung: Giống nhau chỉ trên bề mặt
Nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước khẳng định văn hóa VN chịu ảnh hưởng rất sâu rộng bởi nền văn minh Trung Hoa, yếu tố cùng thể chế cũng chi phối sự ảnh hưởng này. Quan điểm của ông ra sao?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Nhìn bề ngoài thì đúng là như thế, nhưng nếu chỉ dừng ở cảm nhận bề ngoài thì ta sẽ chỉ có được những nhận xét cảm tính, phiến diện rất đáng tiếc vì không đi vào bản chất gốc của sự việc! Văn hóa luôn là “mục tiêu, động lực và nền tảng của sự phát triển” cho nên dù có sự tương đồng về thể chế thì VN và TQ vẫn khác nhau rất nhiều.
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, cũng như qua quan sát thực địa tại nhiều địa phương khác nhau của TQ, tôi thấy rất rõ rằng những sự giống nhau tuy nhiều nhưng thuộc về tầng mặt, trong khi những sự khác nhau thì nằm ở tầng sâu, rất căn bản.
Một bên là văn hóa âm tính điển hình như VN, một bên là loại hình văn hóa trung gian “vừa có âm vừa có dương” và có những giai đoạn mặt dương có phần trội hơn như TQ thì làm sao giống nhau hoàn toàn được. Chỉ có thể có những ảnh hưởng do tiếp xúc giao thoa, còn do có cái gốc nền rất khác nhau nên bản chất cũng khác nhau.
Tính trung gian này của văn hóa TQ thể hiện rất rõ trong lĩnh vực tổ chức xã hội. Trong khi xã hội phương Tây luôn biến động nên coi trọng cá nhân, Đông Nam Á ưa ổn định, ít biến động nên coi trọng làng xã thì Đông Bắc Á ở giữa, coi trọng gia đình.
Cụ thể là thế nào, thưa giáo sư?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Văn hóa âm tính xuất phát từ nông nghiệp lúa nước nên có sức mạnh tập thể rất cao. Chính nhu cầu thu hoạch mùa màng, bảo vệ cuộc sống đã buộc mọi người phải chung tay, phải có mối liên kết ràng buộc chặt chẽ.
Tương tự như vậy, khi có ngoại xâm là bị đẩy vào thế cùng, sức mạnh tập thể của văn hóa âm tính, sức mạnh làng xã sẽ trỗi lên chống lại. Lúc ấy cả nước như một.
Đặc trưng rõ nhất của văn hóa VN là vai trò cao của cộng đồng làng xã – đơn vị tế bào của xã hội Việt Nam. Từ làng ra đến nước, tạo nên mô hình Làng – Nước. Trong suốt chiều dài của lịch sử, TQ đô hộ ta cả ngàn năm, đánh chiếm ta bao nhiêu lần mà ta không mất nước là nhờ việc cái gốc văn hóa Việt nằm ở làng chứ không phải ở đô thị.
Quan quân TQ cai trị chỉ có thể đưa đến ở các đô thị chứ không thể kiểm soát hết nông thôn, nên không thể tiêu diệt hay đồng hóa được văn hóa Việt. Và do văn hóa làng quá mạnh nên cứ mỗi khi quân xâm lược rút đi thì văn hóa làng lại tấn công trở lại đô thị, kéo đô thị trở về với văn hóa làng. Đây là đặc trưng rất Việt, khác biệt với nhiều quốc gia khác có nền văn hóa thiên về dương tính mà tại đó, đô thị luôn có lực hút kéo nông thôn biến đổi theo thành thị.
Trong những cuộc đối đầu với các cuộc xâm lăng, chất âm tính mạnh của văn hóa làng xã ấy đã phát huy tác dụng, giúp cho VN dù có trải qua hàng ngàn năm lệ thuộc cũng không bị ảnh hưởng của đô thị lôi kéo, kết quả là không bị văn hóa ngoại bang đồng hóa.
Trong khi đó, trong văn hóa TQ và các nước Đông Bắc Á, do làm nông nghiệp lúa cạn, trồng kê mạch, không cần liên kết lớn ở quy mô làng xã nên đơn vị cơ bản của xã hội là gia đình. Từ gia đình (nhà) ra đến nước, tạo nên mô hình Quốc gia – Nhà nước.
Đặc trưng của gia đình là tôn ti trật tự, có trên có dưới. Ra xã hội cũng vậy, “trên bảo thì dưới phải nghe” là nguyên tắc tối thượng. Nó khác với VN ta ngày xưa là “phép vua thua lệ làng”, hay ngày nay là hiện tượng “trên bảo dưới không nghe”, “thủ kho to hơn thủ trưởng”, v.v…
Bởi vậy mà trong văn hóa TQ, ý chí luận rất mạnh. Họ có thể làm được những việc “kinh thiên động địa” như xây Vạn lý Trường thành thời Tần Thủy Hoàng, hay “chiến dịch diệt chim sẻ” vào những năm 1958-1962 khiến cho sau đó châu chấu tràn ngập phá nát mùa màng và kéo theo nạn đói lớn làm cho nhiều người chết đói.
Văn hóa TQ hướng đến cái tuyệt đối, cực đoan kiểu “đội đá vá trời”, “Ngu Công dời núi”, “Tinh Vệ lấp biển”, “toàn dân làm gang thép”, “toàn dân diệt chim sẻ”. Trong khi văn hóa VN do thiên về âm tính nên hướng đến sự dung hòa theo triết lý âm dương. Theo đó, làm cái gì cũng hướng tới mục tiêu “vừa phải”, không thấp quá nhưng cũng đừng cao quá, “trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình”.
Trần Ngọc Thêm, Đại tướng quân, văn hóa, Trần Quốc Hải, xe tăng, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, Vạn lý Trường thành,
Xe bọc thép mới do cha con ông Trần Quốc Hải chế tạo. Ảnh: TTO
Tư duy “vừa phải”, ưa khen ngợi
Đứng từ góc độ này thì có thể thấy hai nền văn hóa rất khác nhau về bản chất. Vậy tư duy “vừa phải” mà ông vừa nói tác động đến ta thế nào – trong tính cách cá nhân, cộng đồng, xã hội…?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Tư duy “vừa phải” là đặc điểm cố hữu của người nông dân Việt. Thấy ai khó khăn thì mọi người xung quanh xúm lại giúp cho vươn lên, đó là mặt tốt đẹp. Nhưng ngược lại, nếu thấy có ai vươn lên cao hơn thì mọi người cũng thường xúm lại, cùng nhau kéo xuống, để về sau không ai còn dám nghĩ đến chuyện nổi trội lên nữa!
Ở VN ta, những người tài giỏi xuất sắc trong một cơ hay bị dèm pha, đố kỵ. Mà ở đời thì anh nào giỏi, làm nhiều thì hay có sai nhiều. Do “ghen ăn tức ở” (hiện nay lớp trẻ gọi tắt là thói GATO) và tâm lý muốn giữ lấy cái sự ổn định, bình yên cho mình mà người ta sẽ săm soi, bới móc thổi phồng, biến cái lỗi nhỏ thành to, thậm chí đặt điều nói không thành có.
Khi cả tập thể đã xúm vào “trị” anh giỏi mà lãnh đạo lại non tay thì ông ta sẽ không bảo vệ người giỏi nữa và ngả theo số đông. Đó là một lý do lớn khiến nhiều người phải từ bỏ môi trường nhà nước, hoặc thậm chí ra nước ngoài tìm đất phát triển khả năng.
Với tư duy “vừa phải” như thế, ở VN không thể có những công trình vĩ đại như Vạn lý Trường thành, Kim tự tháp hay Angkor. Những cái kỳ vĩ đó chỉ có thể là sản phẩm của lối tư duy tuyệt đối theo kiểu văn hóa dương tính, đối lập với tư duy “vừa phải” của ta.
Mặt khác, văn hóa âm tính giống như người phụ nữ, thường chỉ thích nghe và tin là thật những lời khen nịnh. Vì vậy mà người VN ta thường không thích bị chê, kiểu “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, “Đừng vạch áo cho người xem lưng”. Có ai đụng đến khuyết tật gì của mình là lập tức thanh minh thanh nga, tìm cách trốn tội, “đá quả bóng sang chân người khác”.
Cả hệ thống quản lý nếu không tỉnh táo, sáng suốt, thì cũng bị nền văn hóa âm tính này chi phối và phạm phải những quyết định sai lầm.
Chẳng hạn, mấy năm qua có một tổ chức quốc tế thường khảo sát các giá trị ở các quốc gia qua thăm dò dư luận. Khi họ công bố kết quả rằng VN là đất nước có chỉ số hạnh phúc cao vào loại gần nhất thế giới thì chỗ nào cũng phấn khởi đưa tin, lên tiếng phụ họa. Nhưng khi cũng chính tổ chức này công bố kết quả rằng ngành nọ ngành kia của Việt Nam do tham nhũng, đút lót nhiều mà có chỉ số hài lòng thấp thì ngay lập tức, tổ chức đó bị phản ứng.
Với một truyền thống văn hóa “ưa được nịnh”, “thích được khen”, nhưng lại sợ phê bình và tự phê bình đến như thế, nếu không tự thay đổi từ gốc rễ mà cứ đòi hỏi tiến bộ, đòi hỏi “văn hóa từ chức”…, thì vẫn chỉ là mơ mộng mà thôi!
(Theo Vietnamnet)

The Diplomat: Mỹ và Nhật hỗ trợ Việt Nam mạnh nhất ở Biển Đông

(An Ninh Quốc Phòng) - Trung Quốc có một lợi thế quan trọng hơn so với Nhật – Việt, rõ ràng nhờ vào kho vũ khí hạt nhân và vai trò trung tâm trong nền kinh tế châu Á.


Tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ thăm Việt Nam đã khiến giới truyền thông Trung Quốc đặc biệt chú ý và có nhiều đồn đoán.
Tạp chí The Diplomat ngày 26/11 đăng bài phân tích của giáo sư Alexander L. Vuving từ Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á – Thái Bình Dương tại Honolulu bình luận, cuộc khủng hoảng Việt – Trung trên Biển Đông sau khi Bắc Kinh đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam tháng 5 vừa qua được xem như một phép thử để xác định ai đứng về phía ai trong cuộc xung đột ở Biển Đông.
Trong khi hầu hết cộng đồng quốc tế vẫn duy trì quan điểm trung lập ở Biển Đông, một số quốc gia đã ủng hộ quan điểm của Việt Nam công khai bằng hình thức này hay hình thức khác. Trong số những nước ủng hộ Việt Nam, Hoa Kỳ và Nhật Bản có thể xem như đối tác hỗ trợ mạnh nhất và đáng tin cậy nhất, giáo sư Vuving bình luận. Các bên chia sẻ chung một mục tiêu là duy trì sự cân bằng quyền lực và giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực trong 2 thập kỷ qua.
Trung Quốc với khoảng thời gian dài duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong 3 thập kỷ qua dường như đã xác định rằng cần sử dụng sức mạnh quân sự mới để theo đuổi tuyên bố yêu sách chủ quyền (vô lý và phi pháp) của họ ở Biển Đông và cuối cùng sẽ chiếm vị thế vai trò thống trị trong khu vực. Tương lai an ninh khu vực sẽ phụ thuộc rất nhiều vào các bên liên quan đến Biển Đông.
Vị trí, vai trò chiến lược của Biển Đông với các bên
Trước đó hầu hết các nhà bình luận đều cho rằng tranh chấp ở Biển Đông là về vấn đề lãnh thổ và xung đột tài nguyên thiên nhiên giữa các quốc gia ven biển. Điều này sẽ tạo ra một ngõ cụt không thể làm sáng tỏ tính toán và động cơ của các bên liên quan. Bên cạnh giá trị kinh tế, Biển Đông còn có giá trị chiến lược to lớn với nhiều quốc gia.
Trung Quốc tuyên bố “chủ quyền” với gần như toàn bộ Biển Đông với bản đồ đường lưỡi bò. Giới hoạch định chiến lược và phân tích Trung Quốc xem Biển Đông là “chuỗi đảo đầu tiên”.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam thì Biển Đông thạm chí còn quan trọng hơn nhiều đối với việc phòng thủ. Nếu Trung Quốc coi Biển Đông là sân sau thì với Việt Nam, Biển Đông là cửa ngõ phía trước bước ra thế giới.
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam gần nơi Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981.
Biển Đông không chỉ có giá trị chiến lược với các quốc gia ven biển mà còn với các cường quốc khu vực và quốc tế. Các tuyến đường vận chuyển ngắn nhất giữa Ấn Độ với Thái Bình Dương đều đi qua Biển Đông, tuyến hàng hải chiếm 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới và 1/2 tổng lượng vận chuyển dầu khí toàn cầu.
Không chỉ các nền kinh tế Đông Nam Á mà ngay cả Đông Bắc Á cũng phụ thuộc vào tuyến hàng hải huyết mạch trên Biển Đông. 80 % dầu và khí đốt của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đi qua Biển Đông. Vùng biển này được ví như nút cổ chai châu Á hay một động mạch toàn cầu. Ai kiểm soát Biển Đông có thể kiểm soát tối cao ở Tây Thái Bình Dương.
Mỹ có tham chiến hay không khi nổ ra xung đột ở Biển Đông?
Hoa Kỳ đã có sự quan tâm đặc biệt đến Biển Đông, kể từ năm 2010 các nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần tuyên bố Washington có lợi ích quốc gia cốt lõi ở Biển Đông, trong đó tự do và an toàn hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông là điều Mỹ quan tâm đặc biệt. Cả nền kinh tế Mỹ và thế lực Mỹ trên toàn cầu cũng như vai trò của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương phụ thuộc vào tự do, hòa bình trên Biển Đông với những mức độ khác nhau.
Trong thực tế nếu xảy ra một cuộc phong tỏa ở Biển Đông sẽ tác động đến nền kinh tế Mỹ nhưng không phải quá lớn. Nhưng Mỹ xem Biển Đông là một phần quan trọng, chìa khóa cho vị thế ưu việt của mình ở Tây Thái Bình Dương và duy trì trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu. Nhưng thực tế liên kết giữa Biển Đông và lợi ích của Mỹ không phải lúc nào cũng rõ ràng và hữu hình. Do đó sẽ khó khăn cho Washington thuyết phục dân Mỹ tin vào tầm quan trọng của Biển Đông đối với lợi ích của họ.
Khả năng Mỹ tham chiến ở Biển Đông được giới hạn bởi nhu cầu của Mỹ về một không gian mở sau 2 cuộc chiến tranh tốn kém và 1 cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trung Quốc đã nhận ra khoảng trống quyền lực nảo này và đã tăng cường các hoạt động xét lại mình trong khu vực. Nhưng cam kết của Mỹ với khu vực quan trọng này có thể được tăng cường một lần nữa.
Tổng tham mưu trưởng, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ tiếp Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ Martin Dempsey thăm Việt Nam.
“Nhật Bản sẵn sàng giúp Việt Nam, nhưng không thể một mình cân bằng với Trung Quốc”
Lợi ích của Nhật Bản ở Biển Đông bắt nguồn chủ yếu từ sự phụ thuộc vào tuyến đường hàng hải cũng như sự theo đuổi của Tokyo về một trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu. Nếu Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát khu vực này họ có thể kiểm soát 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản và có thể thay thế Hoa Kỳ trong vai trò lãnh đạo mới của khu vực.
Một trật tự khu vực nếu do Trung Quốc dẫn đầu rất có thể sẽ có ít tự do và thuận lợi cho Nhật Bản hơn là vai trò Mỹ đang đảm nhiệm hiện nay. Nhật Bản có chung mối quan tâm mạnh mẽ cùng với Mỹ và Việt Nam về việc duy trì nguyên trạng trong khu vực.
Nhật Bản có thể làm được gì ở Biển Đông? Đương nhiên Tokyo không thể đóng vai trò như một giải pháp từ bên ngoài, Nhật thiếu vũ khí hạt nhân và có thể phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế, hay đơn giản Nhật Bản không thể ngăn chặn Trung Quốc.
Do đó cân bằng vẫn là vai trò có thể cho Nhật Bản. Nhật sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam chống sự bành trướng của Trung Quốc thông qua việc cung cấp các tàu tuần tra bảo vệ. Nhưng thậm chí khi Nhật Bản tham gia cùng Việt Nam thì liệu Tokyo đã đủ sức để cân bằng ảnh hưởng của Bắc Kinh vẫn còn là câu hỏi thú vị cần nghiên cứu nhiều hơn. Nếu chỉ nhìn vào sức mạnh quân sự và kinh tế tổng hợp có thể thấy Nhật Bản không làm được.
Trung Quốc có một lợi thế quan trọng hơn so với Nhật – Việt, rõ ràng nhờ vào kho vũ khí hạt nhân và vai trò trung tâm trong nền kinh tế châu Á. Do đó vai trò hiệu quả nhất đối với Nhật Bản ở Biển Đông là tạo điều kiện cho việc hình thành một khối giữa Hoa Kỳ, Việt Nam, Philippines và các nước khác chia sẻ chung lợi ích của việc duy trì nguyên trạng.
Vuving bình luận, chỉ có một liên minh do Mỹ dẫn đầu mới có thể cân bằng sức mạnh của Trung Quốc trong khu vực. Với lợi ích cao của mình ở Biển Đông và nhận thức được nó, Nhật Bản có thể sẽ sẵn sàng đóng vai trò này. Tuy nhiên với khoảng cách địa lý và tâm lý khác nhau trong vấn đề Biển Đông, Washington có thể ít sẵn sàng cho liên minh như vậy. Đây có thể là một yếu tố ngăn chặn xung đột leo thang, nhưng cũng có thể khiến Trung Quốc đánh giá thấp quyết tâm của các đối thủ và trở nên nguy hiểm, khiêu khích hơn.
(Theo Giáo Dục)

Thừa Thiên-Huế dừng thực hiện dự án khu du lịch World Shine-Huế

(Chính trị) - Ông Nguyễn Quê, Trưởng Ban quản lý Khu Kinh tế Chân Mây-Lăng Cô, tỉnh Thừa Thiên-Huế, cho biết Ban quản lý Khu Kinh tế Chân Mây-Lăng Cô và nhà đầu tư vừa quyết định thống nhất dừng thực hiện dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine-Huế từ chiều hôm nay, 26/11.


Thừa Thiên-Huế dừng thực hiện dự án khu du lịch World Shine-Huế
Thừa Thiên-Huế dừng thực hiện dự án khu du lịch World Shine-Huế
Theo ông Nguyễn Quê, đây là dự án thuộc thẩm quyền cấp phép đầu tư của Ban Quản lý Khu Kinh tế Chân Mây-Lăng Cô, nằm trong Quy hoạch phát triển Khu Kinh tế Chân Mây-Lăng Cô theo Quyết định 1771/QĐ-TTg ngày 5/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
Nguyên nhân dừng thực hiện dự án là do còn có nhiều ý kiến khác nhau về vị trí triển khai dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine-Huế.
Tỉnh Thừa Thiên-Huế cũng khẳng định không làm kinh tế bằng mọi giá mà phải đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine-Huế, vị trí Cửa Khẻm, thuộc Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô do Công ty Cổ phần Thế Diệu làm chủ đầu tư, có tổng mức đầu tư 250 triệu USD (khoảng 5.250 tỷ đồng); trong đó vốn điều lệ 798 tỷ đồng, với thời hạn hoạt động 50 năm kể từ khi cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Dự án do 4 cổ đông sáng lập, người đại diện theo pháp luật là ông Lu Wang Sheng, quốc tịch Trung Quốc làm Tổng giám đốc.
Dư luận hết sức hoan nghênh và đồng tình cao với quyết định kịp thời trong việc dừng triển khai dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine-Huế của Ban quản lý Khu Kinh tế Chân Mây-Lăng Cô./.

7 chiến lược Việt Nam chống bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông

(An Ninh Quốc Phòng) - Việt Nam theo đuổi vô số các phương pháp có sử dụng một loạt các cơ chế trải dài từ cứng rắn đến quyền lực mềm ở Biển Đông


Từ khi lên cầm quyền, ông Tập Cận Bình, Chủ tịch Trung Quốc theo đuổi chủ trương ngày càng hung hăng, bành trướng trên Biển Đông, gây bất ổn trong khu vực.
Từ khi lên cầm quyền, ông Tập Cận Bình, Chủ tịch Trung Quốc theo đuổi chủ trương ngày càng hung hăng, bành trướng trên Biển Đông, gây bất ổn trong khu vực.
Tạp chí The Diplomat ngày 26/11 đăng bài phân tích của giáo sư Alexander L.Vuving từ Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á – Thái Bình Dương tại Honolulu bình luận, không có một chiến lược duy nhất có thể khái quát cách Việt Nam làm thế nào đối phó với các vấn đề Biển Đông. Thay vào đó Việt Nam theo đuổi vô số các phương pháp có sử dụng một loạt các cơ chế trải dài từ cứng rắn đến quyền lực mềm ở Biển Đông. Ít nhất có 7 chiến lược riêng biệt của Việt Nam có thể được xác định.
Ở thái cực cứng rắn, Việt Nam sẽ cố gắng củng cố và tăng cường sự hiện diện và các lực lượng của mình, cả quân sự và phi quân sự ở Biển Đông. Thời kỳ trận Hải chiến Trường Sa năm 1988 (Trung Quốc cất quân xâm lược 6 bãi đá của Việt Nam – PV), Việt Nam đã thiết lập đơn vị đứng chân quân sự thường trực trên 11 điểm trong quần đảo Trường Sa, tăng độ phủ quân thường trực từ 10 lên 21 điểm. Từ năm 1989 đến năm 1991, Việt Nam đã cắt lực lượng chốt giữ thêm 6 bãi cát ngầm trên thềm lục địa của mình ở phía Tây Nam quần đảo Trường Sa bằng bằng hệ thống nhà dàn và có lực lượng trông coi.
Chậm mà chắc, Việt Nam tiếp tục củng cố và tăng cường sự hiện diện của mình tại các điểm bằng cách tăng cường lực lượng và cơ sở vật chất, trang thiết bị và đưa dân ra sinh sống. Từ năm 2007, Việt Nam bắt đầu có dân sinh sống trên 2 đảo lớn nhất của mình ở Trường Sa. Để đối phó với thủ đoạn của Trung Quốc, năm 2012 Việt Nam đã quyết định thành lập lực lượng Kiểm ngư như một lực lượng thứ 3 sau Hải quân và Cảnh sát biển để tuần tra vùng biển của mình, (bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam – PV).
Trong cuộc khủng hoảng giàn khoan 981 (Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, lại còn có nhiều hành động nguy hiểm uy hiếp các lực lượng chức năng và ngư dân Việt Nam – PV), các lực lượng Việt Nam đã phát huy được vai trò của mình. Để xây dựng một lực lượng có khả năng răn đe tối thiểu trên biển, Việt Nam tiếp tục hiện đại hóa Hải quân và Không quân. Một yếu tố quan trọng trong lực lượng răn đe này là 6 tàu ngầm Kilo do Nga chế tạo.
Thứ hai, Việt Nam ý thức rất rõ rằng mình không thể dựa vào năng lực quân sự để một mình ngăn chặn Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông. Một chiến lược để bù đắp cho sự thiếu hụt này là cần có sự tham gia mạnh mẽ của các bên thứ ba có liên quan. Áp dụng chiến lược này được Việt Nam giới hạn trong ngành công nghiệp dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông. Nhưng có lẽ Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc cung cấp những nhượng bộ trong thăm dò khai thác các lô dầu khí của mình với các đối tác từ những nước lớn, như Exxon Mobil của Mỹ, ONGC của Ấn Độ, Gazprom của Nga.
Quan hệ Việt - Trung vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Quan hệ Việt - Trung vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Mức độ hạn chế của Việt Nam áp dụng trong theo đuổi các chiến lược này là đáng kế. Việt Nam đã nhiều lần cam kết rằng không tạo liên minh với bất kỳ nước nào để chống lại nước thứ 3, tuyên bố được Vuving cho là để “trấn an Trung Quốc”.
Chiến lược thứ ba, thay vì tạo thành các liên minh và đối tác mạnh mẽ, Việt Nam chú trọng nhiều hơn vào quốc tế hóa vấn đề Biển Đông để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Trong hầu hết giai đoạn 1990-2000, Việt Nam vẫn chủ yếu khiêm tốn trong nỗ lực quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Nhưng trước sự hung hăng ngày một tăng của Bắc Kinh từ năm 2008, Việt Nam đã ngày càng chủ động và quyết tâm tìm kiếm sự chú ý và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế.
Ví dụ, các hội nghị quốc tế về Biển Đông đã được Việt Nam đặc biệt coi trọng từ năm 2009. Việt Nam cũng đã cố gắng đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự trong các cuộc đàm phán và đưa vào tuyên bố chung với hầu hết các chính phủ khác trên thế giới. Các diễn đàn quốc tế như ARF, EAS, APEC, Liên Hợp Quốc hay ASEM đều đã trở thành “chiến trường ngoại giao” của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông.
Tuy nhiên chiến lược thứ tư cho thấy những nỗ lực quốc tế hóa, đa phương hóa vấn đề Biển Đông không ảnh hưởng đến các kênh đối thoại song phương của Việt Nam với Trung Quốc. Việt Nam không chỉ tận dụng lợi thế của tất cả các kênh có thể nói chuyện với Bắc Kinh mà còn nỗ lực duy trì các kênh này. Bên cạnh kênh trao đổi liên lạc giữa 2 chính phủ, Việt Nam cũng duy trì hoạt động tiếp xúc liên lạc giữa 2 Đảng và quân đội 2 nước.
Việt Nam chấp nhận một cách tiếp cận song phương với Trung Quốc trong vấn đề quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam, bị Trung Quốc xâm lược và chiếm đóng trái phép các năm 1956, 1974 – PV), trong khi đó nhấn mạnh cách tiếp cận đa phương đối với quần đảo Trường Sa vì bản chất đa phương của tranh chấp đòi hỏi phải có đàm phán đa phương để giải quyết vấn đền.
Thứ năm, Việt Nam thực hiện chiến lược tự kiềm chế và tự chế để trấn an Trung Quốc cũng là một yếu tố quan trọng trong cách tiếp cận của Việt Nam với vấn đề Biển Đông. Các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Việt Nam nhận thức rõ về sự vượt trội trong sức mạnh quân sự của Trung Quốc và Bắc Kinh thì luôn rình rập cơ hội người Việt bị kích động để leo thang xung đột và tung quân áp đảo Việt Nam.
Trung Quốc đang cải tạo bất hợp pháp ít nhất 5 bãi đá ở Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam thành đảo nhân tạo.
Trung Quốc đang cải tạo bất hợp pháp ít nhất 5 bãi đá ở Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam thành đảo nhân tạo.
Nhưng đối với người Việt, tự kiềm chế và tự chế không chỉ là một chiến thuật tránh bị kích động, mà nó là một cách tiếp cận có hệ thống dựa trên niềm tin rằng Việt Nam có thể thuyết phục Trung Quốc hiểu những ý định lành tính của mình. Hai bên đã xoa dịu về các cuộc xung đột quân sự song phương trong quá khứ (Hải chiến Hoàng Sa 1974, Chiến tranh Biên giới 1979 và Hải chiến Trường Sa 1988).
Để trấn an Bắc Kinh, người Việt cũng đã tự thiết lập giới hạn chặt chẽ về các hoạt động phòng thủ của mình, ví dụ điển hình là chính sách 3 không: Việt Nam không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, không cho phép bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình và không liên minh với nước này để chống nước kia.
Mềm hơn nữa là chiến lược thứ 6, Việt Nam chủ động bày tỏ sự tôn trọng đối với Trung Quốc, kết hợp giữa hợp tác và đấu tranh là chìa khóa cho khả năng tồn tại trong bối cảnh Trung Quốc “phủ bóng ảnh hưởng” xuống Việt Nam trong cả ngàn năm qua. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã đi thăm Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng giàn khoan 981 trước khi ông Minh thăm Mỹ và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ (có kế hoạch) đến Việt Nam.
Trong khi không quên chuẩn bị dự phòng đối phó với một cuộc thách thức quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam hy vọng rằng có thể cô lập và làm giảm bớt xung đột bằng cách khẳng định quan hệ hợp tác, đoàn kết hữu nghị giữa 2 Đảng, nhà nước và quân đội. Bất chấp những căng thẳng, khó khăn sau khủng hoảng giàn khoan 981 phá vỡ sự tin tưởng của người Việt vào Trung Quốc, Việt Nam vẫn tỏ thiện chí muốn đối thoại với Trung Quốc như một chiến lược đối phó với sự bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông. Đó là chiến lược thứ 7.
7 chiến lược này không có cái nào đã được Việt Nam theo đuổi khả năng tối đa của nó kể cả về cường độ và phạm vi. Có những thay đổi về mức độ giữa 7 chiến lược qua từng thời kỳ. Trong giai đoạn 1990 – 2008, Việt Nam ít coi trọng quốc tế hóa Biển Đông, chiến lược nổi bật nhất thời gian này là tăng cường sự hiện diện và kiểm soát trên thực địa, tự kiềm chế và nêu cao tinh thần đoàn kết.
Căng thẳng bắt đầu gia tăng từ năm 2009 đã làm thay đổi cường độ, phạm vi của các chiến lược mà Việt Nam áp dụng. Người Việt tập trung vào tăng cường sự hiện diện và tận dụng mọi sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế. Nhìn chung cách tiếp cận của Việt Nam đối với Biển Đông là kết hợp răn đe với sự bảo đảm.
(Theo Giáo Dục)

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Tàu chiến, máy bay Việt Nam nào sẽ mang BrahMos?

(An Ninh Quốc Phòng) - Tàu cao tốc tên lửa Project 1241RE của Việt Nam là “ứng viên sáng giá nhất” để trang bị tên lửa hành trình chống tàu siêu hạng BrahMos.

Như tin đã đưa, trong chuyến thăm đoàn đại biểu cấp cao Nhà nước Việt Nam, phía Việt Nam đã đề nghị Ấn Độ cung cấp tên lửa hành trình chống tàu siêu thanh BrahMos để phục vụ yêu cầu trước mắt.
Mặc dù chưa rõ việc Ấn Độ có đồng ý việc bán BrahMos nhưng đã có tin 2 nước đã bắt đầu cuộc đàm phán không chính thức.
Tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos có thể được tích hợp trên tàu chiến, trên máy bay, trên bệ phóng mặt đất. Đạn tên lửa lắp đầu đạn nặng 300kg, nặng 3 tấn, có thể đạt tốc độ tối đa Mach 2,8, tầm bắn xa 290km.Với tốc độ cực cao, đầu đạn hạng nặng, BrahMos được đánh giá là một trong những loại tên lửa chống tàu đáng sợ nhất thế giới hiện nay.
Câu hỏi đặt ra là nếu mua BrahMos thì Việt Nam có thể tích hợp nó trên loại tàu chiến, máy bay nào?
Bệ phóng tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos đặt trên tàu khu trục của Hải quân Ấn Độ.
Bệ phóng tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos đặt trên tàu khu trục của Hải quân Ấn Độ.
Tăng sức mạnh “tia chớp” Proejct 1241RE
Hiện nay, Hải quân Ấn Độ đã trang bị tên lửa chống tàu siêu thanh cho một số tàu chiến có trong biên chế hải quân nước này. Hầu hết đó là tàu cỡ lớn với lượng giãn nước cỡ 4.000-5.000 tấn. Còn Việt Nam, hiện nay chúng ta chỉ có tàu hộ vệ cỡ lớn nhất là Gepard 3.9 Project 11661E cỡ 2.100 tấn. Chưa có loại tàu chiến nào của Ấn Độ cỡ tương tự như Gepard trang bị BrahMos.
Ngoài ra, việc tích hợp BrahMos là không hề đơn giản khi phải thay thế hệ thống điều khiển hỏa lực, bố trí bệ phóng tên lửa phù hợp. Việc này có thể can thiệp, ảnh hưởng mạnh tới cấu trúc thân tàu, trong khi Gepard 3.9 là những chiếc tàu chiến mới và hỏa lực của nó cũng tương đối mạnh.
Ứng viên phù hợp nhất cho việc trang bị BrahMos trong Hải quân Nhân dân Việt Nam là tàu cao tốc tên lửa Project 1241RE. Các tàu này trang bị tên lửa hành trình chống tàu P-21 (biến thể P-15 Termit) đã khá cũ, lạc hậu, rất cần được hiện đại hóa.
Tàu cao tốc tên lửa Project 1241RE của Việt Nam.
Tàu cao tốc tên lửa Project 1241RE của Việt Nam.
Đặc biệt nhất là việc Ấn Độ sẽ có thể hỗ trợ tích hợp một cách tốt nhất BrahMos lên Proejct 1241RE của Việt Nam khi mà nước này đã có phương án hiện đại hóa các tàu chiến cùng lớp có trong biên chế.
Năm 2012, truyền thông Ấn Độ đã hé lộ tin hải quân nước này lên kế hoạch hiện đại hóa 5 tàu tên lửa Project 1241RE với “sát thủ diệt hạm” BrahMos. Phương án được đưa ra là, con tàu sẽ thay thế hệ thống điều khiển hỏa lực Harpoon-E và bệ phóng cũ bằng hệ thống mới – Sigma-E.
Sigma-E là hệ thống điều khiển thông tin chiến đấu trang bị cho tàu chiến hiện đại được Nga nghiên cứu và phát triển, có khả năng chống nhiễu cao, bí mật việc trao đổi thông tin theo các kênh vô tuyến dải tần X với tốc độ thông tin 0,95Mb/s; điều khiển điện tử tia theo góc tà; thu thập, xử lý thông tin để thiết lập trường thông tin thống nhất và cơ sở dữ liệu thống nhất của các nhóm tàu chiến thuật; tổ chức các mạng điện thoại có khả năng chống nhiễu cao cho các nhóm tàu chiến thuật…
Tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos phóng theo phương thẳng đứng từ tàu khu trục INS Ranvir Ấn Độ.
Tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos phóng theo phương thẳng đứng từ tàu khu trục INS Ranvir Ấn Độ.
Về phần bố trí bệ phóng BrahMos, thiết kế ban đầu của Project 1241RE không đủ không gian để lắp ống phóng lớn chứa tên lửa BrahMos. Vì vậy, Hải quân Ấn Độ đề ra giải pháp thiết kế mỗi bên thân tàu đặt 4 ống phóng tên lửa BrahMos kiểu nghiêng – cách bố trí như cách đặt tên lửa Uran trên tàu Gepard 3.9.
Với việc tích hợp BrahMos, tàu cao tốc tên lửa Project 1241RE sẽ “lợi hại hơn xưa” trong nhiệm vụ chính – tác chiến chống tàu mặt nước.
Trong chiến đấu tuy khả năng phòng không ở cự ly ngắn, tầm thấp nhưng bù lại có BrahMos đạt tầm bắn 290km, Project 1241RE có thể “ung dung” phóng tên lửa ngoài tầm tấn công của đối phương, sau đó nhanh chóng tăng tốc rút về vùng an toàn.
Su-30MK2 mang được BrahMos?
Ngoài biến thể BrahMos phóng từ tàu chiến, Ấn Độ cũng đang thiết kế biến thể phóng từ trên không để trang bị cho tiêm kích đa năng tối tân nhất nước này Su-30MKI.
Để phù hợp với việc mang phóng trên máy bay, biến thể không đối hải BrahMos sẽ chỉ nặng 2,5 tấn, kích thước dài rộng giữ nguyên, lắp đầu đạn nặng 300km, tốc độ hành trình Mach 2,8-3, tầm bắn 300km.
Tiêm kích Su-30MKI sẽ phải sửa đổi một phần nhỏ ở phần giá treo và hệ thống điều khiển hỏa lực để mang phóng BrahMos.
Mô hình BrahMos lắp dưới thân Su-30MKI.
Mô hình BrahMos lắp dưới thân Su-30MKI.
Đáng lưu ý, tiêm kích Su-30MKI Ấn Độ và Su-30MK2 của Việt Nam tuy tồn tại những điểm khác nhau (thiết kế cánh, động cơ, hệ thống điện tử), nhưng là cùng được chế tạo dựa trên nền tảng Su-30MK của hãng Sukhoi, Nga. Vì vậy, nếu như Su-30MKI có thể tích hợp được BrahMos thì Su-30MK2 hoàn toàn có thể làm được điều tương tự, với điều kiện cần phải có sự sửa đổi trong hệ thống treo và hệ thống điều khiển hỏa lực.
Dù vậy, thì việc cải tiến Su-30MK2 không khả thi bằng việc cải tiến tàu Project 1241RE. Vì hiện Ấn Độ vẫn trong quá trình nghiên cứu BrahMos phóng trên không, dự kiến mẫu thử nghiệm sẽ thực hiện bắn thử lần đầu vào cuối năm tới. Và sẽ mất không ít thời gian để thử nghiệm, hoàn thiện, sản xuất, trang bị.
Để đáp ứng yêu cầu trước mắt trong bảo vệ biển thì việc trang bị BrahMos cho Project 1241RE sẽ phù hợp hơn cả, khi Ấn Độ đã có sẵn phương án, biến thể BrahMos đã sẵn sàng.
(Kiến Thức)

Tin nóng: Nga bán 6 tiểu đoàn S-400 cho Trung Quốc?

(An Ninh Quốc Phòng) - Một tờ báo của Nga cho biết là nước này đã ký hợp đồng trị giá 3 tỷ USD bán 6 tiểu đoàn tên lửa S-400 cho Trung Quốc.
Truyền thông Trung Quốc dẫn nguồn tờ Herald cho hay, Nga đã ký hợp đồng bán hệ thống tên lửa phòng không tầm xa S-400 với Trung Quốc sau nhiều năm đàm phá.
Thông tin này được tờ Herald đăng tải dựa theo nguồn tin quan chức tổ hợp công nghiệp quốc phòng Nga và quan chức Bộ Quốc phòng Nga.
Theo đó, đầu mùa thu năm 2014, công ty xuất khẩu quốc phòng Nga và Bộ quốc phòng Trung Quốc đã ký hợp đồng bán ít nhất 6 tiểu đoàn tên lửa phòng không S-400 trị giá hơn 3 tỷ USD.
Tuy nhiên, công ty xuất khẩu quốc phòng và nhà sản xuất S-400 đều từ chối bình luận hay xác nhận thông tin này.
Hệ thống tên lửa phòng không S-400 của Nga.
Hệ thống tên lửa phòng không S-400 của Nga.
Các cuộc đàm bán về việc bán hệ thống tên lửa S-400 cho Trung Quốc đã kéo dài nhiều năm. Năm 2011, lãnh đạo quốc phòng Nga cho biết việc xuất khẩu hệ thống tên lửa S-400 không thể thực hiện trước năm 2016, vì phải hoàn thành kế hoạch mua sắm quốc gia của quân đội Nga.
Mùa xuân năm 2014, tờ Kommersant của Nga cho biết Tổng thống Putin đã phê chuẩn việc bán hệ thống tên lửa S-400 cho Trung Quốc. Tháng 7/2014 chánh văn phòng Tổng thống Nga Sergei Ivanov tuyên bố Trung Quốc có thể trở thành khách hàng nước ngoài đầu tiên của hệ thống phòng không S-400.
Nhà phân tích quân sự Ivan Konovalov, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu các xu hướng chiến lược Nga cho rằng, trình độ công nghiệp quốc phòng Trung Quốc mặc dù đã mạnh lên trong 15 năm qua, nhưng vẫn có một số bộ phận tạm thời không thể chứng minh khả năng tự chủ của mình. Rất có thể hệ thống tên lửa S-400 này và hệ thống vũ khí hiện đại khác sẽ được Trung Quốc triển khai tại khu vực phía Nam của nước này, mục đích là để kiểm soát tình hình trên không khu vực Đài Loan và các đảo tranh chấp xung quanh khác.
Ngoài ra cũng có báo cáo cho rằng Ả Rập Saudi cũng rất hứng thú với hệ thống tên lửa phòng không tầm xa này, nhưng đàm phán liên quan sau đó cũng bị gián đoạn. Bộ quốc phòng Belarus cũng bày tỏ hy vọng mua hệ thống tên lửa S-400.
(Theo Kiến Thức)

Việt Nam mua tên lửa siêu âm BrahMos, Trung Quốc “mất ăn, mất ngủ”

(An Ninh Quốc Phòng) - Trang tin Russia&India Report (RIR) ngày 3/12 tổng hợp hàng loạt nguồn tin mà Ấn Độ đăng tải về việc Việt Nam đã chính thức đề nghị Ấn Độ cung cấp tên lửa tuần dương BrahMos do Ấn Độ và Nga phối hợp sản xuất. Báo chí nước ngoài cũng đề cập rất nhiều đến sức mạnh quân sự của Việt Nam ngày càng được nâng cấp. Khi mà hợp đồng cung cấp tên lửa tuần dương BrahMos được tiến hành Suôn sẻ, cùng với tên lửa giống kiểu Kh-35 Uran mà Nga đang sản xuất cho Việt Nam thì rất khó để các nước láng giềng “ăn hiếp” đất nước hình chữ S như thời gian vừa qua đã ngang ngược thực hiện.

Trước thông tin Việt Nam sẽ mua tên lửa tuần dương BrahMos, phía Trung Quốc có nhiều động thái phản đối, gây cản trở. Đáp trả lại sự “can thiệp” bất hợp lý của Trung Quốc, Giáo sư Thayer bình luận: “Ấn Độ và Việt Nam có các quan tâm an ninh chung bao gồm việc tăng tính linh hoạt trong khả năng đối phó với Trung Quốc và các cường quốc khác trong vùng của mỗi nước. Quan hệ của Ấn Độ với Việt Nam tạo cơ sở để Ấn Độ có vai trò lớn hơn ở Đông Á, nhất là trong lĩnh vực hàng hải. Chẳng hạn, Ấn Độ có thể dùng quan hệ với Việt Nam để gây sức ép lên Trung Quốc trong quan hệ của Bắc Kinh với Pakistan. Ngoài ra, Ấn Độ cũng có lợi từ sự ủng hộ chính trị của Việt Nam với vai trò là thành viên ASEAN cũng như đối với cố gắng trở thành thành viên thường trực của Liên Hiệp Quốc của New Delhi. Đối với Việt Nam, quan hệ quốc phòng với Ấn Độ giúp Việt Nam giảm sự lệ thuộc quốc phòng gần như toàn diện vào Nga”.
:Nhà khoa học Sivathanu Pillai, Trưởng bộ phận nghiên cứu và phát triển tên lửa siêu thanh BrahMos thuộc DRDO cho rằng trong vòng 20 năm tới không có tên lửa nào có thể đánh chặn được BrahMos
:Nhà khoa học Sivathanu Pillai, Trưởng bộ phận nghiên cứu và phát triển tên lửa siêu thanh BrahMos thuộc DRDO cho rằng trong vòng 20 năm tới không có tên lửa nào có thể đánh chặn được BrahMos
Giáo sư Carl Thayer cũng nói thêm: “Nếu phía New Delhi ngay từ đầu đã sẵn sàng, bất chấp mối quan ngại về một phản ứng bất bình từ phía Trung Quốc, thì phía Mátxcơva vẫn giữ thái độ im lặng. Tuy nhiên, căn cứ vào đà gia tăng của các thương vụ bán vũ khí Nga cho Việt Nam, thương vụ BrahMos chắc chắn sẽ được xúc tiến”. Còn chuyên san RIR và một số nguồn tin từ Ấn Độ cho rằng: “Ấn Độ không thấy trở ngại trong việc bán tên lửa BrahMos cho Việt Nam. Lý do là New Delhi cũng đang tìm kiếm khách hàng cho loại vũ khí này, như Indonesia hay Malaysia”.
Vì sao Trung Quốc lại sợ BrahMos có mặt trong kho vũ khí của Việt Nam. Lý do là bởi, loại tên lửa BrahMos có sức mạnh vô địch, hành trình siêu thanh ứng dụng công nghệ tàng hình có thể phóng từ tàu, tàu ngầm, máy bay hay các trạm phóng lưu động trên mặt đất. Ông Sivathanu Pillai, Giám đốc liên doanh Nga – Ấn Brahmos Aerospace, người chứng kiến sức mạnh của BrahMos nhận định: “Loại tên lửa tương đương với BrahMos vẫn chưa được phát triển. Trong vòng 20 năm tới, nó không thể bị đánh chặn bởi bất cứ một đối thủ nào”. Cùng với hàng loạt loại vũ khí có sức mạnh đáng nể mà Việt Nam nhập về thì BrahMos chính là nỗi ám ảnh khiến Trung Quốc không thể ăn ngon, ngủ yên.
Tin chắc rằng, với niềm tin chiến lược và mối quan hệ thân thiết mà Việt Nam đã xây dựng với Nga, Ấn Độ suốt thời gian qua, thời gian sắp tới Việt Nam sẽ bổ sung cho mình một lực lượng quân sự hùng mạnh, đa phương hóa. Điều này dự báo cho Trung Quốc biết trước: thế cờ sẽ lật ngược – đã đến lúc, sự ngang ngược không còn chiếm thế “thượng” mà tất cả đều phải giải quyết dựa trên pháp lý và bằng chứng cụ thể v.v…
Hải Dương

Khám phá tên lửa BrahMos Ấn Độ sắp bán cho Việt Nam

(An Ninh Quốc Phòng) - Chính quyền Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi mới đây đã lên kế hoạch bán tên lửa siêu thanh BrahMos cho các quốc gia Đông Nam Á và Nam Mỹ, trong đó có Việt Nam.

Nguồn tin từ tờ The Economics Times (Ấn Độ) cho biết giai đoạn đầu chính phủ Ấn Độ sẽ xuất bán tên lửa siêu thanh BrahMos sang Đông Nam Á và Nam Mỹ.
Việt Nam, Indonesia và Venezuela đã bày tỏ mong muốn sở hữu loại tên lửa siêu thanh do Ấn Độ và Nga cùng hợp tác sản xuất này, theo nguồn tin từ The Economics Times.
Khám phá tên lửa BrahMos Ấn Độ sắp bán cho Việt Nam - Ảnh 1
Tên lửa BrahMos do Nga và Ấn Độ hợp tác sản xuất.
Dự kiến Ấn Độ sẽ ký một thỏa thuận về cung cấp thiết bị quốc phòng cho Việt Nam nhân chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Ấn Độ Pranab Mukherjee vào ngày 14-17/9 tới.
Với biệt danh “sát thủ diệt hạm”, tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos là khắc tinh của mọi loại tàu chiến cho đến nay. Cái tên BrahMos xuất phát từ tên viết tắt của hai con sông: Brahmaputra của Ấn Độ và Moskva của Nga.
BrahMos có tầm hoạt động vào khoảng 290km và có thể mang theo đầu đạn thông thường với trọng lượng 300 kg. Tên lửa có tốc độ tối đa Mach 2,8 – tức nhanh gần gấp 3 lần so với tên lửa hành trình Tomahawk do Mỹ sản xuất. Sở dĩ đạt tốc độ cao như vậy là vì BrahMos sử dụng đầu đạn nặng chỉ bằng 3/5 tên lửa Tomahawk và tầm bay ngắn hơn nhiều. Vì thế, tên lửa chỉ thích hợp trong việc tác chiến nhanh hoặc nhằm mục đích phòng thủ.
Hiện nay, Nga và Ấn đã phát triển BrahMos thành 3 phiên bản, bao gồm Block I, Block II và Block III. Trong đó, phiên bản Block I đã có đủ 4 biến thể phóng từ trên không, trên mặt đất, trên tàu mặt nước và từ tàu ngầm. Ngoài ra, Ấn Độ đang hoàn thiện phiên bản “BrahMos-M” dành riêng cho máy bay chiến đấu, khác biệt hoàn toàn với biến thể phóng từ trên không thuộc dòng BrahMos Block I.
Biến thể tên lửa BrahMos-M nhẹ hơn phù hợp với các máy bay chiến đấu hạng nặng như Su-30MKI. Nếu như được thử nghiệm thành công, mỗi máy bay Su-30MKI có thể mang theo 3 quả tên lửa BrahMos-M, còn MiG-29K là 2 quả.
Khám phá tên lửa BrahMos Ấn Độ sắp bán cho Việt Nam - Ảnh 2
Tên lửa BrahMos có nhiều biến thể bắn thẳng đứng trên mặt đất, từ tàu ngầm hoặc từ chiến đấu cơ Su-30MKI.
Với chiều dài vào khoảng 6m, đường kính 50cm và vận tốc gấp 3,5 lần vận tốc âm thanh, hiện nay chưa có cách nào đánh chặn loại tên lửa này.
Việt Nam nên mua phiên bản BrahMos nào?
Ấn Độ và Nga có kế hoạch trong vòng 10 năm tới sẽ chế tạo 2.000 tên lửa siêu thanh BrahMos và 50% trong số đó, sẽ được dùng để xuất khẩu cho các nước đồng minh và bạn bè.
Hiện nay, phiên bản máy bay chiến đấu Su-30MK2 của Việt Nam có tính năng tương đồng với Su-30MKI nên hoàn toàn có khả năng trang bị tên lửa BrahMos. Ngoài ra, dòng máy bay MiG như MiG-29 cũng có thể được tích hợp mang theo BrahMos.
Tàu ngầm Kilo cải tiến 636MV của Việt Nam cũng tương tự như các mẫu thử của Ấn Độ và Nga nên có khả năng trang bị tên lửa BrahMos thay cho lửa hành trình chống hạm Club-S 3M-54E.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể sắm hệ thống phóng tên lửa phòng thủ bờ biển đối hạm BrahMos vì nó có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật với hệ thống K-300P Bastion-P sử dụng tên lửa P-800 Yakhont.
(Theo Tri Thức)

Trung Quốc hoảng sợ khi Việt Nam sở hữu tên lửa chống hạm Brahmos

(An Ninh Quốc Phòng) - Vừa qua, báo chí Ấn Độ loan tin nước này chuẩn bị cung cấp tàu tuần tra và tên lửa BrahMos cho Việt Nam tuần tra và tự vệ trên Biển Đông. Báo chí Trung Quốc phản ứng rất mạnh mẽ và xem đây là hành động khiêu khích của Ấn Độ. Rõ ràng, Trung Quốc rất ngại khi Việt Nam sở hữu  tên lửa Brahmos.

Brahmos có thể được phóng từ Su 30
Brahmos có thể được phóng từ Su 30
BrahMos được phát triển dựa trên sự hợp tác giữa Nga và Ấn Độ. Tên của loại tên lửa này viết tắt của tên hai con sông là: Brahmaputra của Ấn Độ và Moscow của Nga.
BrahMos có khả năng đánh trúng cả các mục tiêu trên mặt nước ở độ cao thấp hơn 10 m. Nó có thể đạt tốc độ Mach 3 (khoảng 3.400 km/h) và có tầm bắn 290 km. Tên lửa Brahmos phóng từ tàu nổi hoặc trên bờ sẽ được gắn đầu đạn 200 kg trong khi mẫu phóng từ máy bay (BrahMos A) có thể mang đầu đạn nặng 300 kg.
BrahMos có động cơ hoạt động chia làm hai giai đoạn, một là đốt cháy nhiên liệu rắn để đẩy tên lửa đạt đến vận tốc siêu thanh sau đó sẽ chuyển sang nhiên liệu lỏng đẩy phản lực để duy trì vận tốc đó trong quãng đường dài. Hệ thống dẫn khí của tên lửa sẽ giúp đốt cháy nhiên liệu lỏng của động cơ hiệu quả hơn khiến cho BrahMos có thể bay xa hơn các tên lửa khác có cùng kích cỡ.
Với tốc độ cao BrahMos có thể dễ dàng đâm xuyên qua mục tiêu hơn các loại tên lửa hạng nhẹ khác như Tomahawk của Mỹ. Với trọng lượng gấp đôi (3.000 kg) và tốc độ nhanh hơn bốn lần tên lửa Tomahawk, BrahMos có lực tác động mạnh hơn 32 lần tên lửa Tomahawk khi đâm vào mục tiêu.
Tuy nhiên BrahMos sử dụng đầu đạn nặng chỉ bằng 3/5 tên lửa Tomahawk và tầm bay ngắn hơn nhiều. Dù vậy, nó là quá đủ trong việc tác chiến nhanh và gần (trong tầm hoạt động của tên lửa), đặc biệt trong điều kiện phòng ngự ở biển Đông, nơi các mục tiêu cách đất liền của Việt Nam không xa, tức là nằm trọn trong tầm bắn của BrahMos
Trong 10 năm qua, Ấn Độ liên tục cải tiến nâng cấp các thế hệ tên lửa BrahMos và đến giờ họ tự hào rằng đã phát triển tên lửa này ở mức hoàn hảo. Năm 2007, Ấn Độ thử nghiệm thành công Brahmos Block-I và đưa vào sử dụng trong quân đội luôn. Sau đó,  Ấn Độ nghiên cứu Brahmos Block-II và thử nghiệm thành công vào 2009. Sau khi thành công với thế hệ 2, họ bắt tay vào thử nghiệm Brahmos Block thế hệ thứ 3 và giờ đã thành công.
Đặc điểm của tên lửa thế hệ thứ 3 là nó có hiệu quả với các mục tiêu trên mặt đất khi bay với độ cao thấp hơn 10 m, dùng để tấn công thọc sâu vào các căn cứ để tiêu diệt mục tiêu chính mà không phá hủy nhầm những thứ xung quanh. BrahMos Block-III có khả năng bay bám sát mặt đất với địa hình gồ ghề để đến được mục tiêu với khả năng bị phát hiện ở mức thấp nhất.
BrahMos ban đầu được phát triển cho các bệ phóng trên bộ. Sau đó, Ấn Độ chế tạo ra loại có thể bắn từ bệ phóng trên tàu gọi là BrahMos N1 và đã thử nghiệm thành công vào năm 2012. Chúng được trang bị trên các tàu khu trục, tàu hộ tống, tàu tuần tra ngoài khơi và các loại tàu tấn công biển và các mục tiêu trên đất liền. Với hệ thống dẫn đường cho tên lửa đặt trên tàu thì khả năng bắn chính xác của BrahMos được đánh giá rất cao.
Bên cạnh đó, Ấn Độ còn phát triển các dòng BrahMos phục vụ cho máy bay và tàu ngầm.  BrahMos A (A là viết tắt của Aerospace) là BrahMos được chế tạo để tích hợp với hệ thống tên lửa trên máy bay Su-30 do Nga sản xuất và việc thử nghiệm đã thành công vào cuối năm ngoái.
Đặc biệt, Ấn Độ độc lập chế tạo ra được tên lửa gắn trong tàu ngầm và đã thử nghiệm thành công tại Vishakhapatnam vào tháng 3 năm ngoái. Ấn Độ tuyên bố họ là nước duy nhất trên thế giới sở hữu công nghệ tàu ngầm phóng tên lửa đạt tốc độ siêu âm.
Tên lửa có thể được lắp đặt trên một bệ phóng thẳng đứng được cài đặt trong thân của tàu ngầm. Nó có thể được phóng từ tàu ngầm dưới độ sâu 40m-50m. Tên lửa có tầm bắn 290km và có thể di chuyển với tốc độ Mach 3 .
Như vậy, BrahMos có thể phóng từ tàu ngầm lớp Kilo, từ tàu chiến Gerpard hay máy bay Su-30 và dĩ nhiên là bệ phóng cơ động trên bộ.  Những khí tài đó quân đội Việt Nam đều có và tức là với BrahMos thì Việt Nam có thể bảo vệ Biển Đông bằng chiến tranh bấm nút một cách hiệu quả.

Ấn Độ chuyển giao 4 tàu tuần tra cho Việt Nam và sẽ còn chuyển giao 36 chiếc nữa

(An Ninh Quốc Phòng) - Tờ Thời báo Bắc Kinh loan tải thông tin cho biết thủ tướng Ấn Độ đã công bố về một cuộc chuyển giao quân sự lớn giúp hiện đại hóa các lực lượng quân sự Việt Nam.

Tàu tuần duyên Rajshree của hải quân Ấn Độ.
Thủ tướng Modi cho biết Ấn Độ sẽ bán cho Việt Nam 4 chiếc tàu tuần tra và đồng ý một khoản tín chấp trị giá 100 triệu USD để giúp Việt Nam sở hữu 4 chiếc tàu này.
Thời báo Bắc Kinh nhận định “sự kiện trên diễn đến sau cuộc gặp gỡ với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm Ấn Đô từ ngày 27 – 28.10”
Nhà lãnh đạo Ấn Độ cho biết hợp tác quốc phòng  với Việt Nam là “cực kỳ quan trọng” và ông cũng nói rằng Ấn Độ sẽ tiếp tục có những nỗ lực nhằm giúp hiện đại hóa lực lượng an ninh, quốc phòng của VN, trong đó bao gồm các chương trình huấn luyện, tập trận chung và hợp tác trang thiết  bị quốc phòng.
Hôm 29.10, Hoàn cầu thời báo (một tờ báo bị phương Tây coi là lá cải nhưng lại là phụ san của Nhân dân nhật báo – tiếng nói chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc), đã cảnh báo New Delhi phải suy nghĩ về những hậu quả tiềm năng cho quan hệ Trung-Ấn, trước khi bán tên lửa và tàu tuần tra cho Việt Nam.
Trước đó một hôm, ngày 28.10, đài New Delhi Television cho hay Ấn Độ đang có kế hoạch bán tên lửa chống hạm BrahMos tầm ngắn và tàu tuần tra cho Việt Nam. Họ nói rằng cả hai quốc gia đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc nên Ấn Độ đang cố gắng nhằm tăng cường hợp tác với Việt Nam. Đồng thời cho biết Thủ tướng Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng  đã đến thăm New Delhi vào ngày 27.10 để thảo luận về hợp tác quân sự với Ấn Độ.
Báo Ấn Độ cũng nói Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu Ấn Độ trợ giúp thêm trong việc đào tạo sinh viên sĩ quan hải quân Việt Nam cũng như việc triển khai các vệ tinh của quốc gia. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói với truyền thông Ấn Độ rằng ông hoan nghênh tàu chiến Ấn Độ tới thăm và giao lưu với Việt Nam.
Theo các chuyên gia quân sự, tên lửa chống hạm BrahMos có thể được phóng từ tàu nổi, cũng như từ máy bay chiến đấu Su-30MKV và tàu ngầm lớp Kilo, những thứ mà quân đội Việt Nam đang sở hữu. Do đó, nó có thể gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với các tàu chiến của Hải quân Trung Quốc trong vùng biển Đông.
Trong một diễn biến khác, tạp chí Quân sự châu Á cho biết hiện Trung Quốc đang sở hữu một cơ số tàu tuần tra lớn nhất hiện tại, lên đến 400 chiếc với tải trọng từ 1.150 đến 3.400 tấn.
Tờ báo dự đoán TQ cũng đang dự định sẽ đón nhận thêm 36 chiếc nữa.
Trong khi đó, hiện lực lượng tuần duyên Nhật Bản chỉ sở hữu 50 chiếc tàu, song có kích cỡ và mức độ hiện đại thì hơn hẳn các loại tàu của Trung Quốc.
18 chiếc hộ tống hạm loại Type 056 đã được lệnh đóng gấp cho lực lượng hải quân TQ nhằm đưa vào tuần tra trong các vùng biển tranh chấp với Nhật Bản. Số tàu này sẽ cho phép hải quân TQ đủ tự tin để đối đầu với lượng lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản trong cuộc tranh chấp ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Hiện đã có 12 trong số 16 chiếc này được hạ thủy. Số tàu này được đóng mới nhằm thay thế số tàu ngầm Type 037 đã lỗi thời.